Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2012

Món ăn, nước uống cho trẻ bị đái dầm


Ðái dầm là trạng thái ban đêm ngủ, đái không tự chủ, thường gặp ở trẻ nhỏ, người lớn đôi khi cũng mắc. Trẻ trên 4 tuổi vẫn đái dầm thì cần chữa trị. Trường hợp nhẹ vài ngày 1 lần, trường hợp nặng đêm nào cũng đái dầm vài lần.
Y học cổ truyền gọi bệnh đái dầm là di niệu, dạ niệu… Nguyên nhân là do khí hóa của thận và tam tiêu suy yếu, hạ nguyên không vững chắc, co bóp của bàng quang rối loạn. Sau đây là một số món ăn dành cho trẻ bị đái dầm theo từng thể bệnh, các bậc cha mẹ có thể tham khảo áp dụng.
Cháo long nhãn: long nhãn 20g, gạo 50g, đường phèn 10g. Gạo xay thành bột hoặc xay hạt nhỏ, cho vào nồi đổ nước vừa đủ nấu thành cháo. Khi cháo chín cho long nhãn thái nhỏ, đường phèn vào quấy đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn vào buổi sáng lúc đói, ngày ăn 1 lần. Cần ăn liên tục 7 - 10 ngày.

Cháo quả vải:
vải 15 quả, gạo 50g, cật lợn 100g, gia vị vừa đủ. Gạo xay thành bột, cật lợn làm sạch, thái thật mỏng, ướp gia vị xào chín. Quả vải bóc lấy cùi thái nhỏ. Cho bột gạo vào nồi, đổ nước vừa đủ, quấy đều đun trên lửa nhỏ, khi chín cho cật lợn và cùi vải vào quấy đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn ngày 1 lần vào buổi sáng lúc đói. Cần ăn liền 5 - 7 ngày.
Cháo tôm: tôm tươi 150g, rau hẹ tươi 100g, gạo 50g, gia vị vừa đủ. Gạo xay thành bột, tôm rửa sạch, bỏ vỏ nhúng nước sôi, thái nhỏ ướp gia vị xào chín. Rau hẹ rửa sạch thái nhỏ. Vỏ, càng tôm giã nhỏ lọc lấy nước ngọt. Cho bột gạo vào nước tôm quấy đều đun trên lửa nhỏ, cháo chín cho thịt tôm, rau hẹ vào đảo đều, cháo sôi lại một lúc là được. Cho trẻ ăn ngày 1 lần vào buổi sáng lúc đói. Cần ăn liền 7 - 10 ngày.
Món ăn, nước uống cho trẻ bị đái dầm, Sức khỏe đời sống, suc khoe, dai dam, tre nho, chao long nhan, y hoc, chao tom

Cháo tôm

Cháo thịt dê:
thịt dê 10g, gạo 50g, hạt sen 20g, bột gia vị vừa đủ. Thịt dê rửa sạch thái mỏng ướp gia vị xào chín tới. Gạo, hạt sen xay thành bột mịn cho vào nồi thêm nước vừa đủ, quấy đều đun trên lửa nhỏ. Khi chín cho thịt dê vào đảo đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn ngày 1 lần vào buổi sáng lúc đói. Cần ăn liền 7 - 10 ngày.
Nước tang phiêu tiêu
(tổ bọ ngựa ở cây dâu): tang phiêu tiêu 10 tổ, sấy khô, nghiền thành bột mịn. Mỗi lần lấy 1 thìa cà phê bột tang phiêu tiêu, 1 thìa cà phê đường, cho vào cốc thêm 50ml nước lọc, quấy đều, đường tan hết cho trẻ uống ngày 2 lần lúc đói. Cần uống liền 3 ngày.
Món ăn, nước uống cho trẻ bị đái dầm, Sức khỏe đời sống, suc khoe, dai dam, tre nho, chao long nhan, y hoc, chao tom

Tang phiêu tiêu (tổ bọ ngựa) tốt cho trẻ mắc bệnh đái dầm.
Cháo cật lợn:
cật lợn 1 quả, kỷ tử 15g, rượu 1 thìa canh, gạo 50g, dầu thực vật, bột ngọt, gia vị vừa đủ. Cật lợn làm sạch thái mỏng, ướp bột ngọt, gia vị xào chín bằng dầu thực vật. Gạo xay thành bột cho vào nồi đổ nước vừa đủ, quấy đều đun trên lửa nhỏ cho cháo chín, rồi cho cật lợn, kỷ tử vào đảo đều, cháo sôi lại một lúc là được. Cho trẻ ăn ngày 1 lần lúc đói. Cần ăn liền 5 ngày.
Cháo củ mài: củ mài 100g, kỷ tử 10g, đường trắng 20g. Củ mài bỏ vỏ rửa sạch cắt miếng cùng với kỷ tử cho vào nồi, đổ nước vừa đủ, ninh nhừ, dùng đũa đánh tơi, cho đường vào quấy đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn ngày 1 lần lúc đói. Cần ăn liền 5 ngày.
Nước hạt trắc bách diệp: hạt trắc bách diệp phơi khô 50g tán thành bột mịn. Mỗi lần uống 5g với nước cơm đặc. Ngày uống 2 lần lúc đói. Cần uống liền 5 ngày.
Trẻ bị đái dầm thường cảm thấy xấu hổ với bạn bè, căng thẳng, hay cáu gắt nên cha mẹ và người thân cần chăm sóc, động viên trẻ. Nên đánh thức trẻ dậy tự đi tiểu vào một giờ nhất định. Tạo thói quen cho trẻ đi tiểu trước khi ngủ. Không nên cho trẻ uống nhiều nước lọc, nước quả hoặc sữa trước khi ngủ. Nếu thấy trẻ kêu đau hoặc bỏng rát khi đi tiểu, số lần đi trong ngày tăng lên, trẻ thèm ăn hoặc uống nước nhiều hơn, sưng mắt cá chân hoặc bắp chân, đái dầm tiếp diễn sau khi trẻ đã quá 7 tuổi có thể do tổn thương ở cơ quan thận - tiết niệu, cần cho trẻ đến bệnh viện để khám và điều trị.

Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

Cách dùng rùa để trị bệnh tim mạch


 Theo Đông y, bệnh lý mạch vành là một trong những nguyên do: khí huyết không lưu thông và gây nên đau đớn và tổn thương. Phép chữa là phải lưu thông khí huyết.  Theo Tây y, cơn đau thắt ngực vùng tim là do cơ tim không được cung cấp oxy, vì mạch vành đã bị tắc nghẽn không thông bởi các nguyên nhân co thắc, đọng mỡ, các cục máu đông,… Cách điều trị là chống co thắt mạch vành hoặc uống các loại thuốc để phá vỡ cục máu đông để chống nhồi máu cơ tim .
     Trong 2 năm 1995 - 1996, Ba tôi bị bệnh nhồi máu cơ tim phải 3 lần cấp cứu và điều trị tại bệnh viện Đa khoa tỉnh. Có người quen ở huyện Phù Mỹ vào thăm và mách cho bài thuốc này. Bố tôi đã dùng và căn bệnh đã được thuyên giảm từ đó đến nay. Hiện giờ sức khoẻ vẫn bình thường, ông đã 82 tuổi.
     Qua thực tế việc chữa bệnh của ba tôi và giúp đỡ cho nhiều người bị bệnh tim mạch khác đã thuyên giảm hoặc dứt bệnh, tôi viết lại những gì đã biết về bài thuốc này như một sự chia sẻ kinh nghiệm để các bạn tham khảo.     
      1/ Mô tả: 
     * Rùa: là động vật bò sát, lưỡng cư, thường sống và ẩn nấp nơi có lá khô mục, hốc đá, hốc cây cạnh khe suối trên núi hoặc trong các đám ruộng, ven bờ đầm lầy nên gọi là rùa núi hoặc rùa đồng. Rùa có nhiều loại: rùa mây, rùa gối, rùa sao, rùa đá, rùa hộp, rùa vàng… dựa theo cách phân biệt màu sắc da, hình dáng, hoa văn trên mai rùa. Nói chung, loại rùa nào dùng làm thuốc cũng đều tốt cả. Tuy nhiên, cần phân biệt rùa khác với ba ba trong khi mua và dùng làm thuốc. Ba ba chân không có móng và ngón như rùa.  Mai baba mềm, đen láng và cũng không có hoa văn như rùa (xem ảnh).
                                           
 Đây là loại Rùa hộp - loại rùa này sinh sống trên cạn, ven các dòng suối
     hoặc nơi có lá mục ẩm thấp trên núi. Loại rùa này dùng làm thuốc rất tốt - ảnh: Hoa Khá 
  * Dây tơ hồng (thỏ ty đằng): Là loại dây leo không có lá, thân mảnh nhỏ và dài như sợi dây, sống bám vào thân cây khác, thường ở nơi gò đồi, dốc núi, lùm bụi cây dại. Dây thường có loại vàng và xanh. Dây tơ hồng có chất nhớt .
             
                                                       Hình ảnh dây tơ hồng
* Cây lục bát: Là loại dây leo, sống nơi gò đồi, dốc núi hoặc mọc cạnh các lùm tre… Thân cây xốp và sần sùi như dây bầu dây bí; Lá màu xanh đậm có nhiều đỉnh (từ 3-7 đỉnh lá); Hoa dạng hình loa kèn, có 5 cánh màu trắng, nhuỵ kín màu vàng lợt. Trái non có màu xanh, khi già có màu trắng phấn, phớt sang vàng và khi chín có màu đỏ rất tươi, to bằng ngón tay cái, không có vị và nhớt (chim chào mào rất thích ăn trái này).
                                        thân cây lục bát
                                                             Hoa và trái lục bát
          alt
                                                                        Hoa cây lục bát
                                                                         Các dạng lá cây lục bát
                                                                                                 Trái cây lục bát
 2/ Vật liệu dùng cho một lần nấu với rùa:
      Rùa: 1 con, nặng từ 5-9 lạng. Dây tơ hồng một bó dài đủ buộc (quấn) hết con rùa. Cây lục bát (thân và rễ đã thái mỏng thành lát nhỏ) từ o,5 – 1 lạng. Hạt sen còn nguyên áo và tim (chồi); Gạo, đậu (xanh, đen,đỏ) mỗi thứ một nhúm nhỏ. Rượu trắng từ 10 – 15 ml.
     3/ Chuẩn bị:
      -  Trộn gạo, hạt sen, đậu (tạm gọi phụ liệu) rửa sạch và ngâm khoảng 30 phút trước khi làm rùa để nấu nhanh chín hơn.
      -  Cho rùa vào thau nước lạnh, dùng bàn chải làm vệ sinh bùn đất trên mai, chân, cổ rùa.
      -    Đun sẵn nước sôi .
      -    Rửa sạch dây tơ hồng và cây lục bát.
      -    Cho rượu vào cốc, chén có miệng lớn để hứng tiết rùa.
      4/ Tiến hành làm:
        Dùng thanh cây nhôm (giống cây đan áo len) bẻ cong như móc câu, lận ngoắc hàm dưới kéo cổ rùa ra khỏi mai, dùng hai ngón tay cái và ngón trỏ bẻ ngược đầu rùa ra phía sau trên mai, để rùa ngửa cổ và giữ chặt. Đặt sẵn chén rượu bên dưới, dùng dao cắt giữa cổ họng rùa (giống như cắt cổ gà vịt vậy), sau đó dốc ngược phần đuôi rùa lên để máu dồn xuống chỗ cắt mà chảy hết ra chén rượu.
         Khuấy đều tiết rùa với rượu và uống ½ , còn lại ½  để sau pha với mật rùa mà uống (nhớ thêm chút rượu vào hoặc đậy kín để rượu không bay hơi, nếu không thì tiết rượu sẽ bị đông). Rượu có tác dụng khử mùi tanh, chống tiết bị đông và dẫn chất vào nhanh trong cơ thể. Tăng cường hoạt huyết cho tiết rùa.                                    
       - Cho rùa vào nồi nước sôi, ngâm đều rồi vớt ra, bóc sạch móng chân và lớp da bên ngoài. Chú ý không được rửa lại bằng nước lạnh, vì rửa lại nước lạnh thì rùa sẽ tanh.
       - Dùng dao chẻ đôi hai bên hông rùa (hình a) tách riêng phần mai và yếm rùa. Dùng dao mỏng rạch và lóc thịt dọc theo yếm, tách mai và yếm ra (hình b).
       Rạch đến đâu thì tách ra đến đó. Tách yếm xong, cho vào nồi sạch (không được rửa lại rùa nữa). Dùng ngón tay moi từ từ hai bên hông rùa tách lấy bộ lòng ra, cẩn thận khéo làm vỡ mật rùa.
     -  Dùng bơm tiêm rút mật ra khỏi túi mật nằm trong lá gan, hòa chung với 1/2 tiết rượu còn lại và uống tiếp. Còn bộ đồ lòng ta lấy cả gan, tim, dạ dày…  Riêng dạ dày phải làm và rửa sạch bằng nước nóng. Sau đó cho tất cả vào bụng rùa với phụ liệu. Lấy yếm úp lên như lúc rùa sống, dùng dây tơ hồng buộc chặt rùa để khi nấu thì các phụ liệu trong bụng rùa không chảy ra ngoài.
     -  Cho rùa vào nồi (xoong nhôm, inox …), đổ nước ngập con rùa. Cho cây lục bát vào nấu chung với rùa. Nấu bằng lửa than, thời gian từ 2- 4 giờ đồng hồ. Chú ý khi nấu luôn giữ cho mức nước ngang với rùa, bằng cách châm thêm nước nóng vào nồi. (Cách khác là: nấu nước cây lục bát và dây tơ hồng trước bằng nồi khác trước 15 phút, rồi lọc lấy nước nấu đó đổ sang nồi thứ 2 để nấu với rùa. Cách này vừa nhanh và sạch, nhưng hơi tốn kém nguyên liệu và dùng nhiều xoong nồi).
     - Vớt rùa ra, cắt dây. Lấy thịt và phụ liệu hòa với nước đang nấu, thêm gia vị vào và đánh nhuyễn thành cháo để ăn. Còn mai, yếm và dây tơ hồng cho vào nồi nấu lấy nước uống .
      Mỗi tuần làm một con, tiếp trong 3 tuần. Sau đó cách 1 – 2 tháng sau ăn tiếp. Tốt nhất nên sử dụng từ 3- 5 con là đủ.
      Rùa nuôi trong nhà bằng cách nhốt vào nơi khuất tối và ẩm ướt như góc nhà tắm, góc bếp, cạnh giếng… và cho rùa ăn các loại như chuối, đu đủ, cà chua, rau muống, cá thịt … Rùa sống và phát triển tốt.
       Tuy nhiên, bài thuốc này từ dân gian nên người viết bài này nhằm thông tin và giới thiệu bài thuốc với bạn đọc, còn vấn đề đi sâu vào nghiên cứu đặc tính và lý giải bằng phương pháp khoa học thì nhờ các nhà chuyên môn và y học nghiên cứu sâu hơn và đáng giá cụ thể hơn.
(P/S: Bài đã đăng giới thiệu trên báo Nông nghiệp Việt Nam năm 2004)
Xem thêm tại địa chỉ này: http://hoakha.vnweblogs.com/post/23399/298384
Trần Hoa Khá





Trao đổi về bài thuốc dùng rùa chữa trị bệnh tim mạch trên Báo Bình Định
      Trong khi tìm hiểu một số thông tin về bài thuốc dùng rùa để trị bệnh tim mạch, thì tình cờ tôi đọc được bài viết về ba (bố) tôi trên báo Bình Định của tác giả Hải Âu, đăng ngày 28/12/2004.
      Tôi là người trực tiếp thực hiện bài thuốc này cho ba tôi dùng và đã nhiều lần hướng dẫn giúp cho những trường hợp khác về cách làm rùa để chữa bệnh. Từ đó, xét trên cơ sở thực tế và nội dung trong bài báo, tôi thấy tác giả Hải Âu có một số chi tiết bị nhầm hoặc chưa rõ, nên tôi cần phải giải thích thêm một số vấn đề nhằm để các bạn rõ hơn.
        Xin nói ngay rằng, tác giả Hải Âu rút tít cho bài báo “Chữa bệnh tim bằng thịt rùa” là chưa thỏa đáng theo tinh thần và cốt lõi của bài thuốc này. Bởi vì, trong bài thuốc này dùng tiết rùa để chữa bệnh là quan trọng hơn là dùng thịt rùa. Theo tôi được biết, tiết rùa có tác dụng phá vỡ các cục máu đông, giải phóng hồng cầu và giúp cho sự lưu thông khí huyết trong cơ thể tốt hơn. Còn đối với thịt rùa trong bài thuốc này chỉ là “thứ phẩm” nhằm bồi bổ cơ thể, tăng cường thể lực và sức khỏe cho người bệnh.
      Ngoài ra, trong bài báo của tác giả Hải Âu còn có một số chi tiết chưa rõ, hoặc nêu chưa chính xác trong cách dùng rùa để chữa bệnh tim mạch. Tôi xin giải thích như sau:
         Chi tiết 1: "Toa" thuốc như sau: rót 1 li rượu trắng, cắt tiết rùa cho nhỏ vào li rượu theo tỉ lệ 2 ml máu + 1 ml rượu rồi hòa tan cho uống khẩn cấp mỗi khi lên cơn đau tim.
      Giải thích:  Tỷ lệ rượu này không hợp lý, vì lượng rượu sử dụng tùy theo trọng luợng của con rùa. Vì con rùa có trọng lượng lớn thì tiết rùa sẽ nhiều hơn, nếu ít rượu quá thì tiết rùa dễ bị đông. Vì vậy, lượng rượu không thể đong đếm cụ thể được mà nên  tùy theo ước lượng (theo kinh nghiệm) mà thôi. Tốt nhất cứ sử dụng nhiều rượu khi pha tiết rùa. Hoặc cho thêm nước gừng pha loãng vào cùng với rượu để giảm nồng độ cồn trong rượu đối với người già, phụ nữ hoặc người không sử dụng được bia rượu.
      Chi tiết 2: Rễ cây thiên hoa phấn (cây lục bát hoặc móng bát).
     Giải thích: Theo cố Dược sỹ Chuyên khoa II – Thầy thuốc ưu tú Trần Giác cho rằng, cây thiên hoa phấn và cây lục bát là hai loại cây hoàn toàn khác nhau. Cây thiên hoa phấn thường dùng trong thuốc bắc, còn cây lục bát thì thường dùng trong thuốc nam. Đặc điểm của 2 loại cây này cũng khác nhau về đặc điểm hình dạng, đặc tính hóa học và nơi sinh sống.
      Chi tiết 3:Dùng dây tơ hồng buộc chặt rùa, cho vào ấm đất (hoặc xoong) đậy nắp kín...
      Giải thích: Đối với nấu rùa thì không thể dùng ấm đất được (ấm đất được hiểu là ấm dùng nấu nước hoặc sắc thuốc bắc theo kiểu truyền thống) vì ấm đất quá nhỏ so với cách dùng để ninh hầm rùa, hơn nữa dùng ấm đất khi sôi thì nước sẽ tràn hết ra ngoài và không thể nấu rùa đến khi chín rục được.
       Vì khi tác giả Hải Âu đến gặp ba tôi thì không có tôi ở nhà, nên tác giả chỉ nghe ba tôi kể lại cách làm rùa theo cách hiểu của ông. Do đó cách làm rùa trong bài viết này chưa cụ thể và các chi tiết chưa đúng với quy trình làm và cách nấu rùa.
     Mời các bạn xem nội dung bài viết đăng trên Báo Bình Định của tác giả Hải Âu:
http://www.baobinhdinh.com.vn/603/2004/12/17428/
    Và sau đây là bài viết của tôi hướng dẫn cách sử dụng và dùng rùa để trị bệnh tim mạch.
http://hoakha.vnweblogs.com/post/23399/284716
     Thời gian đến tôi sẽ tiếp tục bổ sung hình ảnh của cây lục bát (theo yêu cầu của nhiều bạn đọc trên blogs của tôi), hình vẽ cụ thể cách làm rùa và bài viết nghiên cứu của Dược sỹ Phó Đức Thuần, nhằm cung cấp thông tin đầy đủ hơn về bài thuốc dân gian này trên trang blogs của tôi. Mong các bạn đón xem.

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012

Chữa bệnh tim bằng thịt rùa


Chúng tôi tìm đến nhà ông Trần Hoa Tháng (73 tuổi) ở tổ 56 KV10 phường Hải Cảng - Quy Nhơn vào một chiều cuối năm 2004. Trong căn nhà ở sau khách sạn Thủy Thủ, gần cảng Quy Nhơn, hai cha con ông đang tranh thủ kéo thêm ít bao đất để trồng thêm vài chậu cảnh và phủ thêm cái sân sau nhà. Nhìn dáng dấp khỏe mạnh và sự làm việc nhanh nhẹn của ông, mấy ai nghĩ cách đây vài năm ông đã suýt chết vì bệnh tim.
Ông Trần Hoa Tháng hiện nay
Năm 1995, ông Tháng bị đau tim nặng phải đưa vào Bệnh viện đa khoa tỉnh cấp cứu. Hồ sơ bệnh án cho biết, ông bị nhồi máu cơ tim cấp tính, tiên lượng nặng, toàn thân vật vã, liên tục kêu đau tức ngực trái, khó thở, huyết áp động mạch 90/70 mm Hg, mạch 64/p... Trong năm này, ông phải 3 lần liên tục vào viện cấp cứu. Sau 2 tháng kể từ khi ra viện về nhà, dù tiếp tục uống thêm thuốc Tây theo chỉ định của bác sĩ nhưng bệnh tình cũng không thuyên giảm.
Thời gian này, người bạn thân của ông là ông Lê Văn Tư ở xã Mỹ Thọ (Phù Mỹ) - người có con được ông Tháng cho ở trọ học - nghe tin ông Tháng đau đã vào thăm. Ông này thấy ở Phù Mỹ nhiều người bị bệnh tim đã dùng bài thuốc uống máu rùa và ăn thịt rùa (bài thuốc lưu truyền trong dân gian) đã hết bệnh nên bày lại cho ông Tháng. "Toa" thuốc như sau: rót 1 li rượu trắng, cắt tiết rùa cho nhỏ vào li rượu theo tỉ lệ 2 ml máu + 1 ml rượu rồi hòa tan cho uống khẩn cấp mỗi khi lên cơn đau tim. Ngay lần áp dụng đầu tiên, chưa đầy 10 phút sau khi uống rượu tiết rùa, ông Tháng thấy trong người dễ chịu trở lại và không khó thở nữa. Sau đó ông Tư còn bày cách làm thịt rùa để ăn, như sau: Rùa sống 1 con nặng khoảng 6-8 lạng, dây tơ hồng (loại dây bò trên ngọn cây bụi ở trên núi - có loại dây xanh, có loại dây vàng) 1 nắm, rễ cây thiên hoa phấn (cây lục bát hoặc móng bát có trái to bằng ngón tay, khi còn sống có màu xanh, chín màu đỏ, có bán ở chợ hoặc các tiệm thuốc nam); hạt sen, nếp (hoặc gạo), đậu xanh (đậu đen, trắng) mỗi thứ một ít. Rùa sau khi cắt tiết uống thì khoét yếm, lật yếm lên, móc ruột rùa bỏ đi, cho tất cả phụ gia vào bụng rùa (tùy người ăn nhiều hay ít mà bỏ nếp, đậu vào), đậy yếm lại. Dùng dây tơ hồng buộc chặt rùa, cho vào ấm đất (hoặc xoong) đậy nắp kín, đổ nước ngập con rùa rồi bỏ rễ cây lục bát vào nồi. Đun lửa than thời gian từ 2-4 giờ, múc nước trong ấm (xoong) uống. Lấy rùa ra, tháo dây tơ hồng, lật ngửa bụng rùa, lấy muỗng múc cháo, nạo thịt rùa cho vào tô đánh nhuyễn rồi bỏ một chút tiêu, một ít nước mắm cho vào cháo rồi ăn. Sau khi ăn xong con rùa này, ông Tháng đã thấy bệnh 10 phần giảm 7, chỉ còn hơi khó thở. Theo bài thuốc này, gia đình ông đã làm cho ông ăn thêm 2 con nữa và từ đó bệnh của ông hết hẳn và ông cũng ngừng ăn rùa.
Từ đó đến nay đã gần 10 năm, thỉnh thoảng những lúc "cao hứng", ông Tháng còn uống rượu, bia, uống trà và hút thuốc lá nhưng bệnh tim không thấy trở lại. Ông tâm sự: "Hồi cấp cứu ở bệnh viện, tui nằm như xác chết, bác sĩ trong bệnh viện nói chắc không chữa hết nên biểu tui về nhà nằm nghỉ... Bây giờ thì cháu nhìn xem, nhờ bài thuốc con rùa mà tui khỏe mạnh hẳn ra. Sau khi hết bệnh, tui còn đi biển kéo neo, đánh cá một thời gian nữa. Nhưng giờ con cái thấy lớn tuổi rồi không cho làm nữa nên nghỉ ở nhà. Hàng ngày tui lên xuống cầu thang bình thường, ăn ngủ tốt, sáng đi tập thể dục, tắm biển cho tinh thần sảng khoái. Có hôm tui đi bộ trên 10 cây số, cũng có sao đâu...".
Bài thuốc này ông Tháng đã "truyền" lại cho rất nhiều người cùng bị bệnh tim. Tương tự như ông, bà Lê Thị Bảy ở số nhà 85 Hai Bà Trưng - Quy Nhơn, cách đây 6 năm bị suy tim nặng, phải thở bằng miệng, đại tiểu tiện tại giường. Điều trị theo bài thuốc của ông Tháng, đến nay bệnh tim của bà cũng chấm dứt hẳn. Hiện bà đã bước sang tuổi 75, về ở với con trai ở xã Cát Tân - Phù Cát tại cây xăng Bá Thuận - quốc lộ 1A, hàng ngày bà vẫn đi lại tự lo sinh hoạt, cơm nước, giặt giũ cho mình bình thường.
Theo sự giới thiệu của ông Tháng, chúng tôi tiếp tục tìm đến nhà ông Huỳnh Sang, 72 tuổi, ở số nhà 33 Trần Cao Vân - Quy Nhơn, đúng lúc vợ ông - bà Nguyễn Thị Bảy đang được người nhà tập đi lại. Anh Huỳnh Sinh, con trai ông bà kể lại: "Cha tôi bị nhồi máu cơ tim hồi 69 tuổi, nằm viện hoài mà không hết. Nghe tin ông Tháng dùng bài thuốc con rùa chữa bệnh tim của mình dứt hẳn, chúng tôi tìm đến hỏi thăm cách thức về thực hiện. Cha tôi uống vào thì thấy bệnh có thuyên giảm. Để chắc ăn, chúng tôi cho ông dùng tiếp 4 con nữa và từ đó, bệnh chấm dứt luôn. Giờ đây chẳng những ông khỏe mạnh mà còn là một kỳ thủ của đường Trần Cao Vân này đấy. Và điều đáng nói là má tôi - nay 64 tuổi - bị tai biến mạch máu não năm 62 tuổi, được đưa vào TP. Hồ Chí Minh chữa nhưng không hết. Một lần bà trong cơn nguy kịch, phải thở bằng oxy trong bệnh viện, tôi chợt nghĩ liều, ba tôi nhồi máu cơ tim uống tiết rùa đỡ bệnh, thì cũng cho bà uống thử toa thuốc rùa này, biết đâu may mắn thì qua khỏi... Thế là tôi cũng áp dụng luôn bài thuốc con rùa cho bà, không ngờ bà lại qua được cơn nguy kịch. Sau khi ăn uống thêm mấy con rùa nữa thì má tôi đỡ hoàn toàn. Giờ bà đang điều trị thêm bằng vật lý trị liệu, minh mẫn lắm...".
Ông Tháng còn cho biết, nhiều người mang bệnh tim hiểm nghèo ở một số tỉnh khác và cả ở Hà Nội đã tìm đến ông, khi thì đến nhà trực tiếp, khi thì liên lạc qua đường thư từ, điện thoại để được ông bày bài thuốc rùa và bệnh đều qua khỏi...
Từ thực tế những bệnh nhân mắc bệnh tim như ông Tháng, bà Bảy, ông Sang… nhờ bài thuốc con rùa mà hết bệnh như đã kể trên, rất mong các chuyên gia ngành y tế, các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu để có kết luận chính xác về bài thuốc dân gian này. Và nếu thật sự bài thuốc này có hiệu nghiệm, cũng nên phổ biến rộng rãi để nhiều người cùng biết.
. Hải Âu

Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Mùa nắng nóng và bệnh đường tiêu hóa ở trẻ


Thời tiết nắng nóng là điều kiện tốt cho nhiều loại vi khuẩn, vi rút sinh sôi nảy nở và “mặc sức hoành hành”. Ở trẻ em, những căn bệnh về da, hô hấp và nhất là bệnh đường tiêu hóa tăng nhanh khi thời tiết bước vào giai đoạn nắng nóng.

Theo thông tin và số liệu từ các bệnh viện Nhiệt Đới, bệnh viên Nhi Đồng 1, Nhi Đồng 2 thì trong những ngày nắng nóng vừa qua, số lượng bệnh nhân nhi nhập viện do thời tiết đã tăng cao đáng kể. Những bệnh về đường tiêu hóa mà trẻ mắc phải do thời tiết nắng nóng đáng chú ý cần kể đến đó là tiêu chảy, kiết lỵ và các bệnh đường ruột khác. Nguyên nhân chủ yếu là do thời tiết nắng nóng khiến thức ăn dễ bị ôi thiu, nhiều loại vi trùng sinh sôi rất nhanh trong thời gian này và được đưa vào cơ thể trẻ thông qua việc ăn uống. Đôi khi thức ăn không hợp vệ sinh, đồ ăn chế biến rất nhanh bị hỏng, các loại nước ngọt được trẻ thích hơn và nạp vào cơ thể nhiều cũng dễ khiến trẻ bị mắc các bệnh về đường tiêu hóa.
Bệnh tiêu chảy

Tiêu chảy làm trẻ mất nước và nhanh kiệt sức. Ảnh: Getty images.
Số bệnh nhi nhập viện vì tiêu chảy có độ tuổi từ 1 – 3 tuổi. Ở độ tuổi này sức đề kháng lẫn đường ruột vẫn còn yếu, chưa thể được như người lớn, vì thế khi thức ăn không vệ sinh hoặc những vật dụng đựng thức ăn, bình sữa hoặc núm vú cao su cho bé bú bình cũng là nguồn dễ nhiễm vi khuẩn làm bé nhiễm bệnh. Bệnh tiêu chảy ở trẻ cũng là một trong những bệnh có nguy cơ gây tử vong cao, nguy hiểm.
Một số nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy.
-    Tình trạng dinh dưỡng kém khiến bệnh tiêu chảy dễ “tìm đến” với bé hơn. Những nguyên nhân liên quan đến tình trạng vệ sinh trong vấn đề ăn uống của trẻ vừa kể trên khiến vi khuẩn dễ xâm nhập vào cơ thể trẻ gây bệnh. Khi trẻ bệnh, một vòng tròn luẩn quẩn xuất hiện vì khi trẻ bị tiêu chảy, trẻ biếng ăn lại càng dễ dẫn đến suy dinh dưỡng.
-    Vi khuẩn, siêu vi khuẩn hoặc giun sán là những kẻ gây nhiễm khuẩn đường ruột khiến trẻ bị tiêu chảy.
-    Cha mẹ cho trẻ ăn loại thực phẩm hoặc món ăn mới khiến trẻ không tiêu hóa được cũng dễ dẫn đến tình trạng tiêu chảy ở trẻ.
Điểm mặt những “thủ phạm” gây bệnh tiêu chảy gồm có siêu vi rota và phổ biến hơn cả là vi khuẩn ecoli, hầu hết hai “thủ phạm” này có mặt trong thức ăn, đồ uống không hợp vệ sinh hoặc những nơi dơ bẩn. Biểu hiện của trẻ khi bị tiêu chảy là trẻ đi tiêu lỏng 3 lần trong vòng 24 giờ. Nguy cơ lớn nhất của tiêu chảy chính là gây nên tình trạng mất nước, chất điện giải khiến cơ thể bị suy kiệt và khả năng dẫn đến tử vong nếu không được chữa trị kịp thời là rất cao.
Cách chữa trị bệnh tiêu chảy
Bù nước cho trẻ: Khi bị tiêu chảy, trẻ sẽ có những dấu hiệu như sút cân, tiểu ít, miệng khô, mắt lõm, da không còn căng và kém đàn hồi, ngủ không yên, cáu gắt. Có thể bù nước cho bé bằng gói Oresol. Đây là loại thuốc chứa muối natri, muối kali và đường glucoz. Có thể hòa tan 1 gói Oresol trong một lít nước đun sôi để nguội và cho trẻ uống liên tục trong ngày.
Tùy theo tình trạng mất nước nhiều hay ít mà lượng nước uống vào trung bình theo tỷ lệ như sau:
Trẻ sơ sinh dưới 6 tháng: 250-500ml.
Từ 6 đến 24 tháng: 500-1.000ml
Từ 2-5 tuổi: 750-1.500ml
Trên 5 tuổi: từ 1.000-2.000ml.
Người lớn cũng có thể tự pha dung dịch bù nước cho trẻ với công thức: pha một lít nước đun sôi, để nguội với một muỗng cà phê muối ăn và 8 muỗng cà phê đường cát (muối và đường khi múc bằng muỗng cần lấy đũa gạt bằng miệng muỗng, không múc một muỗng đầy). Nếu có sẵn mật ong, có thể thay đường cát bằng 8 muỗng cà phê mật ong, ngoài ra  có thể thêm nước cam hay nước chanh vào dung dịch này. Mật ong chứa lượng đường glucoz nên cơ thể dễ hấp thu hơn đường cát (saccharoz). Sau mỗi lần bé đi tiêu chảy thì cho bé uống một tách dung dịch đã pha.

Khi bị những bệnh này trẻ luôn cảm thấy mệt mỏi, chán ăn nên phụ huynh cần chú ý bổ sung chất dinh dưỡng cho trẻ. Ảnh: Getty images.
Bổ sung chất dinh dưỡng cho bé

Với những trẻ còn bú mẹ, cần duy trì việc cho bú và cố gắng cho trẻ bú thêm nhiều lần để bù vào lượng nước trẻ mất khi đi tiêu. Tuy nhiên, trong chế độ ăn uống của người mẹ nên cẩn thận với những thực phẩm có tính nhuận tràng khiến bé khó dứt tiêu chảy.
Cho bé ăn những thức ăn giàu đạm, nấu chín và nghiền nhuyễn như thịt, cá, đậu, lòng đỏ trứng, không nên ăn thức ăn có mỡ hay xào nấu với mỡ.
Nên cho bé ăn súp cà rốt hoặc nước cháo cho đến khi bé bình phục.
Bệnh kiết lỵ
Trẻ rất dễ bị mắc bệnh tiêu chảy cấp khi vào mùa nóng, bệnh này chia làm hai loại. Một loại là trẻ nôn ói, tiêu chảy kéo dài, còn loại thứ hai thì bệnh nhi đi tiêu phân có đàm và máu, theo tên gọi dân gian thì đây là chứng kiết lỵ. Bệnh này do vi khuẩn Shigella và ký sinh trùng Entamoeba hystolitica gây ra, vì thế có thể chia bệnh kiết lỵ ra làm hai loại là lỵ trực trùng (do vi khuẩn Shigella) và lỵ amine (do ký sinh trùng Entamoeba hystolitica).
Lỵ trực trùng: thường có triệu chứng ồ ạt. Biểu hiện của lỵ trực trùng là hai dấu hiệu: nhiễm trùng và đi tiêu nhiều. Trẻ em chán ăn, sốt cao, có thể co giật, tiếp đến là đau bụng quanh rốn rồi đau quặn ruột. Ban đầu trẻ đi tiêu phân lỏng, sau đi ra toàn chất nhầy lẫn máu. Bé đi cầu một ngày 10-12 lần, cô thể mất nước, mệt mỏi nên thường xuyên quấy khóc.
Trẻ có những triệu chứng trên là do vi khuẩn shigella gây viêm toàn bộ đại tràng và trực tràng. Bệnh thường lây truyền qua phân. Khả năng trẻ bị lây vì người thân trong gia đình bị bệnh, đi tiêu không rửa tay, lấy thực phẩm cho bé ăn hoặc mua thực phẩm đường phố có nhiễm vi khuẩn shigella. Nếu trong nhà có nuôi chó, mèo thì phân của vật nuôi cũng có thể chứa vi khuẩn gây bệnh. Lông súc vật cũng là một đường lây bệnh khi trẻ thích ôm ấp, vuốt lông thú nuôi. Thêm một khả năng nữa đó là vật nuôi được vào nhà, để lại vi khuẩn trên nền nhà mà trẻ bò hoặc để tay chạm phải rồi đưa lên miệng cũng khiến trẻ bị lây bệnh. Tất nhiên không thể quên một “thủ phạm” rất nguy hiểm chính là ruồi, ruồi bu vào phân người chứa vi khuẩn rồi bu trên thức ăn thì rất dễ dàng cho vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể bé.
Lỵ amibe: Loại bệnh lỵ amibe lại có biểu hiện là chỉ âm ỷ. Người bệnh có thể sốt nhẹ, hoặc không nhưng chủ yếu là đau quặn bụng, mót rặn. Ban đầu người bệnh cũng đi tiêu phân lỏng, sau nhiều nhầy và máu, một ngày đi tiêu 5 – 10 lần.
Tác hại của bệnh lỵ: Những tác hại của bệnh lỵ  trẻ nhỏ rặn nhiều sẽ bị sa hậu môn. Vì mất nhiều chất bổ dưỡng nên trẻ dễ bị viêm đa dây thần kinh. Hội chứng viêm niệu đạo kết mạc mắt có thể xuất hiện sau khi bị lỵ. Trẻ có thể bị viêm khớp rồi để lại di chứng teo cơ.
Lỵ amibe: có thể gây rối loạn chức năng vận động của ruột, viêm đại tràng, trĩ, sa hậu môn. Nặng nhất là ký sinh trùng amibe lên gan gây ápxe gan.

Vật nuôi cũng là một nguồn lây bệnh kiết lỵ. Ảnh: Getty images.
Điều trị bệnh
Khi phát hiện các triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh kiết lỵ, bệnh nhân phải vào bệnh viện ngay để được khám, chẩn đoán và điều trị kịp thời, tránh không được tự ý chữa trị hoặc chữa mẹo, bệnh không được để lâu trở nặng gây nhiều biến chứng và cp1 nguy cơ cao lây lan trong cộng đồng. Điều trị bệnh cần có sự gima sát chặt chẽ của bác sĩ.
Bệnh tả
Bệnh tả cũng có nguy cơ xuất hiện trong mùa nóng. Cần phải có ý thức cảnh giác bệnh tả, vì đây vừa là một bệnh nguy hiểm, có thể làm tử vong nhanh chóng vừa dễ lây lan thành dịch.
Ba triệu chứng chủ yếu khi mắc bệnh tả: tiêu chảy ra nước ồ ạt, nôn ói liên tục, đau bụng. Nguy hiểm nhất là triệu chứng tiêu chảy, bệnh nhân đi ngoài liên tục, không cầm được, phân toàn nước màu trắng đục. Khi đó, bệnh nhân bị mất nước nhiều, kiệt sức và tử vong rất nhanh. Gây ra bệnh này là vi khuẩn hình phẩy Vibrio cholerea (phẩy khuẩn tả).
Các loại vi khuẩn nói trên luôn có ở những nơi dơ bẩn, nguồn nước kém vệ sinh, thức ăn bị ôi thiu, chưa nấu chín hay để ruồi đậu vào. Khi trẻ ăn uống trong môi trường kém vệ sinh đó, các loại vi trùng nói trên sẽ theo thức ăn vào bộ máy tiêu hóa, chúng phát triển và bài tiết ra nhiều chất độc gây bệnh làm tử vong, gây thành dịch.
Để phòng ngừa, cần phải giữ vệ sinh ăn uống, chúng ta cần phải: uống sạch, nên dùng nước đun sôi để nguội, khi uống nước giải khát nên dùng các loại đã qua xử lý tiệt trùng đóng kín trong lon hoặc chai, không nên cho các em uống các loại nước vỉa hè bụi bặm. Ăn các loại thức ăn đã nấu chín không để quá 2 giờ, khi ăn rau sống phải rửa thật kỹ bằng nước muối. Tất cả thức ăn khi chưa dùng đều phải để nơi sạch sẽ, bao hoặc đậy kín, tập cho trẻ thói quen rửa tay sạch sẽ trước khi ăn và sau khi đi tiêu.
Bù nước và điện giải cho trẻ
Cho trẻ uống: Oresol pha với một lít nước sôi để nguội. Có thể pha dịch thay thế: 8 muỗng cà phê đường, 1 muỗng cà phê muối pha trong 1 lít nước uống; cũng có thể dùng nước cháo 50g và 3,5g muối hoặc nước dừa non có pha một nhúm muối.
Liều lượng thuốc Oresol cho trẻ uống theo độ tuổi như sau:
0 – 2 tuổi: 50 – 100ml Oresol mỗi ngày (tương đương ½ gói)
2 – 9 tuổi: 100 – 200ml presol mỗi ngày (tương đương 1 gói)
Từ 10 tuổi trở lên có thể cho uống tùy vào số lần đi tiêu, tình trạng mất nước của người bệnh, khoảng 2 gói Oresol một ngày.
Khi phát hiện trẻ bị bệnh cần phải đưa trẻ đi khám để có sự điều trị kịp thời của bác sĩ hoặc nhân viên trạm y tế.
Môi trường thiếu vệ sinh, khí hậu nóng bức khiến rất nhiều vi khuẩn, vi trùng và mầm bệnh sinh sôi, các bậc phụ huynh cần lưu ý giữ gìn vệ sinh trong sinh hoạt và quan trọng nhất là trong việc ăn uống để trẻ có được sức khỏe tốt, tránh bị nhiễm những căn bệnh nguy hiểm về đường tiêu hóa. Ngoài những bệnh nguy hiểm nói trên, trẻ còn nguy cơ mắc các bệnh cũng thuộc đường tiêu hóa như tắc ruột, sa trực tràng, thương hàn… Khi nhận thấy trẻ có những dấu hiệu bị bệnh, cần đưa trẻ đi khám ngay để có thể chữa trị kịp thời, tuyệt đối không nên chủ quan để trẻ ở nhà tự điều trị.

Nguyên nhân, cách phòng và điều trị bệnh kiết lỵ ở trẻ em


Cách điều trị bệnh kiết lỵ ở trẻ như thế nào? Nguyên nhân gây ra bệnh kiết lỵ ở trẻ từ đâu?

Cách điều trị bệnh kiết lỵ ở trẻ

Bệnh kiết lỵ là nhiễm trùng đường ruột, thông thường kiết lỵ là bệnh được gọi bằng một tên chung nhưng thật ra kiết lỵ có hai loại bệnh riêng khác nhau. Bệnh lỵ trực khuẩn (bacillary dysentery) do trực khuẩn Shigella thuộc vi khuẩn gram (-) gây ra. Còn bệnh lỵ amíp (amoebic dysentery) do ký sinh trùng loại đơn bào entamoeba histolytica gây ra. Hai bệnh này có tên chung thường gọi là kiết lỵ nhưng nguyên nhân gây bệnh khác nhau, vì vậy cần phân biệt để gọi tên cho chính xác: bệnh lỵ trực khuẩn hoặc bệnh lỵ amíp.
Hầu hết nhiễm trùng ở dạng mang mầm bệnh không triệu chứng, một số biểu hiện ở dạng tiêu chảy nhẹ kéo dài, hoặc trầm trọng hơn là lỵ tối cấp. Biểu hiện lâm sàng ngoài ruột thường là áp xe gan, có thể vỡ vào màng bụng, màng phổi, màng ngoài tim. Những biến chứng ở bệnh kiết lỵ là Thủng ruột, xuất huyết tiêu hóa, lồng ruột, viêm loét đại tràng sau lỵ, viêm ruột thừa do amip…
- Các triệu chứng thường gặp

+ Tiêu chảy có nhiều nước lúc đầu, sau đó phân có thể có đàm, máu lượng ít và nhiều lần.

+ Đau bụng nhiều, nhất là khi đi tiêu.

+ Sốt cao.

+ Ói, biếng ăn.

Các trường hợp nặng có thể gây nhiễm trùng huyết.

- Việc điều trị kiết lỵ cần đáp ứng các yêu cầu sau

+ Hạ sốt để tránh sốt cao có thể gây co giật nhất là ở các cháu nhỏ.

+ Bù nước và điều chỉnh rối loạn điện giải như: hạ na tri máu, hạ can xi máu, hạ kali mu, hạ đường huyết.

+ Dinh dưỡng đủ theo tuổi. Cần bổ sung thực phẩm nhiều chất đạm.

+ Về kháng sinh: sử dụng kháng sinh uống hay chích tùy mức độ nặng của bệnh (việc dùng thuốc cần theo chỉ định bác sĩ)

+ Không nên sử dụng các chất làm chậm nhu động ruột vì có nguy cơ làm bệnh kéo dài thêm.

Điều trị kiết lỵ nên tích cực ngay từ đầu để tránh biến chứng nặng (nhiễm trùng huyết, co giật do rối loạn điện giải hoặc do sốt cao); ngoài ra trẻ có thể bị suy dinh dưỡng hoặc chậm lên cân, suy nhược cơ thể…

Cách phòng ngừa

+ Nếu có điều kiện nên cho trẻ bú sữa mẹ đến 18 tháng hoặc 24 tháng tuổi.

+ Nếu trẻ bú sữa bình phải rửa sạch bình. Người pha sữa nên rửa tay trước khi pha sữa cho bé.

+ Khi chuẩn bị bữa ăn cho bé nên làm đúng cách và hợp vệ sinh.

+ Nên rửa tay sau khi làm vệ sinh cho bé.


Bệnh kiết lỵ và bài thuốc chữa trị
Kiết lỵ là gì?

Là tình trạng nhiễm trùng ở ruột già do Entamoeba histolyca hoặc do vi khuẩn Shigella. Hầu hết nhiễm trùng ở dạng mang mầm bệnh không triệu chứng, một số biểu hiện ở dạng tiêu chảy nhẹ kéo dài, hoặc trầm trọng hơn là lỵ tối cấp. Biểu hiện lâm sàng ngoài ruột thường là áp xe gan, có thể vỡ vào màng bụng, màng phổi, màng ngoài tim.

Bệnh kiết lỵ lây truyền bằng cách nào?

Qua thức ăn, nước uống, nước rửa rau quả.

Thú vật mang mầm bệnh (chó, mèo).

Ruồi là trung gian tuyền bệnh nguy hiểm.

Do tay bẩn.

Bào nang dính dưới móng tay.

Ngoài ra bệnh kiết lỵ có thể lây qua hoạt động sinh dục, và đây là một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng ở những quần thể đồng tính luyến ái.

Triệu chứng của bệnh kiết lỵ?

Ðau bụng, mót rặn, tiêu phân đàm máu.

Ðau bụng thường ở manh tràng ( hố chậu phải, dễ lầm với viêm ruột thừa) dọc theo khung đại tràng ( dễ lầm với loét dạ dày ).
Tiêu phân nhày máu, đôi khi xen kẽ với tiêu lỏng, số lượng không nhiều, nhưng đi đại tiện nhiều lần trong ngày.

Mót rặn : đau rát hậu môn kèm theo cảm giác đòi hỏi đại tiện một cách bức thiết.

Sốt cao nếu là do shigella.

Những biến chứng ở bệnh kiết lỵ?

Thủng ruột.

Xuất huyết tiêu hóa.

Lồng ruột.

Viêm loét đại tràng sau lỵ.

Viêm ruột thừa do amip.

Các biến chứng hiếm.

Chẩn đoán của bệnh kiết lỵ?

Tiền căn đau bụng, tiêu đàm máu.

Di chuyển đến vùng có bệnh kiết lỵ.

Có tiếp xúc với người tiêu đàm máu, đau bụng hoặc có nhiều người cùng mắc bệnh tương tự ở chung một tập thể hoặc quanh vùng cư ngụ.

Xét nghiệm qua phân.

Qua nội soi.

X quang ruột già.

Huyết thanh.

Ðiều trị bệnh kiết lỵ như thế nào?

Các loại thuốc diệt ly amibe:

Émétine: do thuốc bài tiết chậm nên cần khoảng thời gian giữa hai đợt điều trị là 45 ngày.

Metronnidazole: thuốc xâm nhập qua hàng rào máu não tốt nên là thuốc chọn lựa để điều trị các tổn thương thần kinh trung ương.

Dehydro-émétine: ít độc, thải trừ nhanh hơn émetine, khoảng cách giữa hai đợt điều trị là 15 ngày.

Các lọai thuốc diệt kiết lỵ do mầm bệnh shigella

- Ciprofloxacine, Péfloxacine, Ofloxacine.

- Bactrim.

Bệnh kiết lỵ được phòng ngừa như thế nào?

Rửa sạch tay trước khi ăn, ăn chính, uống sôi.

Rửa sạch rau sống, thức ăn cần đậy kỹ tránh ruồi nhặn.

Vệ sinh phân, rác, quản lý việc dùng phân trong nông nghiệp.

Ðặc biệt nơi sống tập thể và người phục vụ ăn uống, cấp dưỡng, nuôi dạy trẻ phải sạch sẽ.

Ðiều trị người lành mang bào nang.

Chữa kiết lỵ, đi ngoài ra máu ở trẻ em bằng thuốc nam
Lấy hạt sen (bỏ ruột), vừng đen và củ mài, mỗi thứ 8 g. Tất cả đem sao vàng rồi tán thành bột mịn. Sau đó trộn đều thuốc với mật và cho trẻ uống trong ngày với nước ấm.
Đó là một trong những bài thuốc chữa kiết lỵ, đi ngoài ra máu cho trẻ rất hiệu quả. Sau đây là 5 bài thuốc khác:
- Hạt hướng dương bóc vỏ 20-30 g, rửa sạch, sắc với 750 ml nước, đến khi còn 200 ml thì thêm ít đường phèn. Chia làm 2 lần uống trước bữa ăn.
- Hoa hồng phơi khô 10-15 g, sắc với 500 ml nước cho đến khi còn 200 ml. Chia làm 2 lần uống trước bữa ăn và uống hết trong ngày. Nếu không có hoa hồng thì dùng hoa cúc bách nhật (hoa tử vi) cũng hiệu quả.
- Hoa hồng đỏ, hoa tường vi, mỗi thứ 10-15 g, rửa sạch, giã nát, hòa với nước cháo uống ngày 2-3 lần.
- Lá ích mẫu non 12-20 g, nấu cháo với gạo tẻ để ăn và nấu nước uống thay trà.
- Rau sam rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt, đun sôi, chế với chút mật để uống lúc đói. Cũng có thể hòa với nước cơm, uống khi đói.

Nguyên nhân và cách điều trị bệnh kiết lỵ

I. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH KIẾT LỴ:
Đó là do vi khuẩn shigella gây viêm toàn bộ đại tràng và trực tràng. Bệnh thường lây truyền qua phân. Người thân trong gia đình bị bệnh, đi cầu không rửa tay, lấy thực phẩm cho bé ăn hoặc mua thực phẩm đường phố có nhiễm shigella. Cũng có thể trong nhà nuôi chó, mèo, phân chó, mèo cũng chứa vi khuẩn gây bệnh. Trẻ thích chơi với súc vật, sờ vào lông, bò ra nền nhà rồi đưa tay vào miệng…Trong nhà có ruồi, ruồi bu vào phân người chứa vi khuẩn rồi bu trên thức ăn…
Theo Y Học Hiện Đại:
a/ Do Amip (Dysenteric Amibienne), một loại trùng do bác sĩ Loesh và Kartulis tìm ra năm 1875.
b/ Do trực khuẩn ngắn không di động, gam âm, gây ra. Có thể do:
+ Shigella Amigua hoặc trực khuẩn Schmitz.
+ Shigella Dysenteriae hoặc trực khuẩn Shiga.
+ Shigella Paradysenteriae hoặc trực khuẩn Flexner.
+ Shigella Sonnei hoặc trực khuẩn Sonne.
Theo Y Học Cổ Truyền:
Sách “Nội Khoa Học Thượng Hải và Thành Đô” ghi: Nguyên nhân gây ra Bệnh lỵ:
a/ Thấp Nhiệt:
Lúc giao tiếp giữa mùa hè và thu, nhiệt tà bị uất, thấp khí bị ứ trệ cùng với nhiệt độc kết hợp với nhau hóa thành máu và mũi, gây ra Lỵ.
+ Thấp Nhiệt gọi là Bạch Lỵ.
+ Nhiệt nhiều gọi là Xích Lỵ.
b/ Ăn uống không điều độ hoặc thức ăn không sạch, ăn nhiều thức ăn béo (cao lương mỹ vị) làm hại Tỳ Vị, Tỳ Vị hư không thắng nổi Thấp làm cho Thấp ủng trệ bên trong nung đốt tạng phủ, khí huyết ngưng trệ sinh ra máu và mũi.
Người hay ăn các thức ăn sống, lạnh, hàn thấp tích trệ ở trong kèm theo ăn uống không cẩn thận, hàn thấp làm tổn thương (hại) Tỳ Vị, khí của Đại Trường bị trở ngại làm tổn hại đến doanh (dinh) huyết sinh ra chứng Hàn Thấp Lỵ.
c/ Cảm thụ phải thời hành dịch khí, ủng trệ ở trường vị, hợp với khí huyết hóa ra mũi, máu, thành Bệnh Dịch Độc Lỵ.
d/ Trình Chung Linh trong sách “Y Học Tâm Ngộ “ đời nhà Thanh (1644) nêu ra 3 nguyên nhân:
-Tích nhiệt
-Cảm phong hàn bế tắc
-Do ăn uống thức ăn sống, lạnh.
Như vậy, nguyên nhân gây ra Bệnh Lỵ có thể gom thành 2 loại:
+ Ngoại nhân: Do ngoại tà Hàn, Thấp,Nhiệt, vá Dịch độc.
+ Nội nhân:Do ăn uống làm tổn thương Tỳ Vị.
Tuy chia nguyên nhân gây Bệnh ra làm 2 loại như trên nhưng 2 yếu tố này luôn ảnh hưởng đến nhau:
+ Có khi Bệnh ở trong nhân Bệnh ở ngoài mà dễ phát sinh (chính khí suy-tà khí thịnh).
+ Có khi Bệnh bên ngoài nhân có Bệnh ở trong mà phát sinh (tà khí thịnh-chính khí suy).

II. ĐƯỜNG LÂY TRUYỀN BỆNH KIẾT LỴ:
Qua thức ăn, nước uống, nước rửa rau quả.

Thú vật mang mầm bệnh (chó, mèo).

Ruồi là trung gian tuyền bệnh nguy hiểm.

Do tay bẩn.

Bào nang dính dưới móng tay.

Ngoài ra bệnh kiết lỵ có thể lây qua hoạt động sinh dục, và đây là một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng ở những quần thể đồng tính luyến ái.

III. TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH KIẾT LỴ:

Người bệnh có thể sốt nhẹ, có thể không nhưng chủ yếu là đau quặn bụng, mót rặn. Phân ban đầu còn lỏng, sau toàn nhầy và máu, ngày đi 5-10 lần.
 Ðau bụng thường ở manh tràng ( hố chậu phải, dễ lầm với viêm ruột thừa) dọc theo khung đại tràng ( dễ lầm với loét dạ dày ).
Tiêu phân nhày máu, đôi khi xen kẽ với tiêu lỏng, số lượng không nhiều, nhưng đi đại tiện nhiều lần trong ngày.
Mót rặn : đau rát hậu môn kèm theo cảm giác đòi hỏi đại tiện một cách bức thiết.
Sốt cao nếu là do shigella.

IV. BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH KIẾT LỴ:

Thủng ruột.

Xuất huyết tiêu hóa.

Lồng ruột.

Viêm loét đại tràng sau lỵ.

Viêm ruột thừa do amip.

Các biến chứng hiếm.
Trẻ  nhỏ rặn nhiều sẽ bị sa hậu môn. Vì mất nhiều chất bổ dưỡng nên trẻ dễ bị viêm đa dây thần kinh. Hội chứng viêm niệu đạo kết mạc mắt có thể xuất hiện sau khi bị lỵ. Trẻ có thể bị viêm khớp rồi để lại di chứng teo cơ.
Có thể gây rối loạn chức năng vận động của ruột, viêm đại tràng, trĩ, sa hậu môn. Nặng nhất là ký sinh trùng amibe lên gan gây ápxe gan do amibe.

CHUẨN ĐOÁN BỆNH KIẾT LỴ:

Tiền căn đau bụng, tiêu đàm máu.

Di chuyển đến vùng có bệnh kiết lỵ.

Có tiếp xúc với người tiêu đàm máu, đau bụng hoặc có nhiều người cùng mắc bệnh tương tự ở chung một tập thể hoặc quanh vùng cư ngụ.

Xét nghiệm qua phân.

Qua nội soi.

X quang ruột già.

Huyết thanh.

V. ĐIỀU TRỊ BỆNH KIẾT LỴ:
Các loại thuốc diệt ly amibe:

Émétine: do thuốc bài tiết chậm nên cần khoảng thời gian giữa hai đợt điều trị là 45 ngày.

Metronnidazole: thuốc xâm nhập qua hàng rào máu não tốt nên là thuốc chọn lựa để điều trị các tổn thương thần kinh trung ương.

Dehydro-émétine: ít độc, thải trừ nhanh hơn émetine, khoảng cách giữa hai đợt điều trị là 15 ngày.

Các lọai thuốc diệt kiết lỵ do mầm bệnh shigella

- Ciprofloxacine, Péfloxacine, Ofloxacine.

- Bactrim.

PHÒNG NGỪA BỆNH KIẾT LỴ:

Rửa sạch tay trước khi ăn, ăn chính, uống sôi.

Rửa sạch rau sống, thức ăn cần đậy kỹ tránh ruồi nhặn.

Vệ sinh phân, rác, quản lý việc dùng phân trong nông nghiệp.

Ðặc biệt nơi sống tập thể và người phục vụ ăn uống, cấp dưỡng, nuôi dạy trẻ phải sạch sẽ.

Ðiều trị người lành mang bào nang.
(ST)

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

Viêm họng khi nào dùng kháng sinh?

Viêm họng là một bệnh rất thường gặp và do nhiều nguyên nhân  gây ra. Khoảng hơn hai phần ba các trường hợp viêm họng đều không cần dùng đến kháng sinh. Nhưng trên thực tế hầu hết bệnh nhân đều dùng kháng sinh do có thể tự mua ở nhà thuốc hoặc cũng có thể được kê toa không phù hợp, và cũng không ít bệnh nhân đi khám bệnh vì muốn được uống kháng sinh.
Ảnh minh họa
Thông thường, trên thực tế nguyên nhân của viêm họng thường được  chia làm ba nhóm:
Thứ nhất là nhóm nguyên nhân do những yếu tố kích thích, không do nhiễm trùng: như thuốc lá, trào ngược dịch vị từ dạ dày, chảy mũi sau, hoặc do dị ứng với khói bụi, không khí ẩm, vật nuôi, vải sợi.
Viêm họng do nhóm nguyên nhân này thường hay lặp đi lặp lại và thường có bệnh sử ợ hơi ợ chua, viêm dạ dày, hút thuốc lá, làm việc trong môi trường ô nhiễm, hay nuôi thú, tiếp xúc với hóa chất rất rõ.
Bệnh cũng có thể diễn tiến âm ỉ kéo dài và thường đi đôi với bệnh lý của đường hô hấp như viêm mũi xoang, viêm mũi dị ứng, viêm thanh quản mạn. Cách điều trị lý tưởng là điều trị loại bỏ các yếu tố nguyên nhân: điều trị trào ngược, điều trị viêm mũi xoang, làm vệ sinh môi trường sống thật tốt và có chế độ ăn uống phù hợp: tránh các thực phẩm dị ứng, quá nóng, quá lạnh hoặc nhiều chất gia vị.
Thứ hai là nhóm nguyên nhân do nhiễm siêu vi trùng (virus), nhóm nguyên nhân này chiếm khoảng 80-90% các trường hợp viêm họng ở người lớn và khoảng 70-80% các trường hợp viêm họng ở trẻ em.
Viêm họng do nhóm nguyên nhân này ngoài triệu chứng đau họng, bệnh nhân thường có một hoặc nhiều triệu chứng sau: mệt mỏi, sốt nhẹ, chảy mũi, hắt xì, ho, khàn tiếng. Trẻ em thường có thể có các triệu chứng không điển hình như thở miệng, ói, đau bụng hoặc tiêu chảy.
Để điều trị bệnh viêm họng do nhóm nguyên nhân này bệnh nhân cần nghỉ ngơi, uống nhiều nước, uống thuốc giảm đau, hạ sốt, thuốc long đàm giảm ho và kháng histamine giảm chảy mũi. Bệnh thường khỏi sau 5-7 ngày, đôi khi cũng có những trường hợp nặng kéo dài 10-14 ngày. Nếu sử dụng kháng sinh ở nhóm nguyên nhân này chẳng những không có tác dụng mà rất có thể bị dị ứng thuốc và nguy cơ tạo sự kháng thuốc.
Thứ ba là nhóm nguyên nhân do vi trùng, trong đó vi trùng thường gặp nhất là liên cầu khuẩn bêta tan huyết nhóm A, nhóm nguyên nhân này chiếm khoảng 5-15% các trường hợp viêm họng ở người lớn, và khoảng 10-30% các trường hợp viêm họng ở trẻ em.
Đặc biệt ở trẻ từ 5-15 tuổi khi bị viêm họng do liên cầu khuẩn bêta tan huyết nhóm A nếu không phát hiện điều trị kịp thời có thể gây bệnh sốt thấp cấp (vi trùng tấn công mô liên kết như tim, gây tổn thương van tim, hoặc khớp, não và da) hoặc bệnh viêm cầu thận hậu nhiễm liên cầu mặc dù ngày nay biến chứng này rất hiếm xảy ra.
Đây là nhóm nguyên nhân viêm họng duy nhất cần sử dụng kháng sinh.
Triệu chứng đau họng trong bệnh viêm họng do nhiễm trùng thường xuất hiện đột ngột, không có ho sổ mũi hoặc viêm kết mạc mắt đi kèm, nhưng thường có sưng hạch cổ và sốt cao.
Để chẩn đoán xác định bệnh, bác sĩ sẽ nuôi cấy bệnh phẩm từ phết họng và amiđan. Tuy nhiên, trên thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đa số các trường hợp bác sĩ thường dựa trên kinh nghiệm qua sự thăm khám tỉ mỉ để quyết định điều trị kháng sinh cho bệnh nhân.

Thứ Hai, 9 tháng 1, 2012

Món ăn chữa chứng ra mồ hôi trộm ở trẻ


Cháo trai giúp chữa chứng mồ hôi trộm ở trẻ. Ảnh: SK&ĐS.
Mồ hôi trộm là hiện tượng ra mồ hôi không liên quan đến nhiệt độ môi trường, dù trời nóng hay lạnh, và chỉ bị khi trẻ ngủ. Mồ hôi trộm xuất hiện ở mọi lứa tuổi, nhưng mắc nhiều ở trẻ em.
Theo y học cổ truyền, mồ hôi trộm là do chân âm hư yếu, cơ thể không giữ được tân dịch, nhiệt thịnh gây ra nóng trong. Dưới đây là một số món ăn, nước uống để các bậc phụ huynh tham khảo và áp dụng chữa cho con em mình.
Cháo gốc hẹ: Gốc hẹ 30g, gạo 50g, thịt lợn nạc 50g, gia vị vừa đủ.
Gốc hẹ chọn phần thân sát củ, rửa sạch giã nhỏ lọc lấy 200ml nước đặc. Thịt lợn nạc băm nhỏ ướp bột gia vị xào chín. Gạo xay thành bột, cho vào nước gốc hẹ quấy đều, đun trên lửa nhỏ, khi cháo chín cho thịt lợn, bột ngọt vào đảo đều, cháo sôi lên là được. Cho trẻ ăn ngày một lần, cần ăn liền 2 - 3 ngày, nếu trẻ nhỏ chưa ăn được thì lọc lấy nước cho uống.
Cháo chạch: Cá chạch đồng 100g, gạo 50g, dầu thực vật, bột ngọt, gia vị vừa đủ.
Cá chạch làm sạch, bỏ đầu, nội tạng, đuôi, đem hấp cách thủy cho chín, gỡ lấy thịt, ướp bột gia vị, xào bằng dầu thực vật. Xương chạch giã nhỏ lọc lấy 200ml nước ngọt. Gạo xay thành bột cho vào nước lọc, xương chạch quấy đều đun trên lửa nhỏ. Khi cháo chín cho thịt chạch và gia vị vào đảo đều. Cháo sôi lại là được. Ăn một lần trong ngày lúc đói, cần ăn liền 3 ngày.
Cháo cá quả: Cá quả một con (200g), gạo 50g, ngũ vị 2g, gia vị vừa đủ.
Cá quả làm sạch, bỏ nội tạng, đem hấp cách thủy, gỡ lấy thịt nạc, ướp bột gia vị. Xương cá giã nhỏ lọc lấy 200ml nước ngọt. Gạo, ngũ vị xay thành bột mịn, cho vào nước lọc xương cá quấy đều đun trên lửa nhỏ, khi cháo chín, cho gia vị, thịt cá vào quấy đều, cháo sôi lại là được. Ăn ngày một lần lúc đói, cần ăn liền 3 - 5 ngày.
Cháo trai: Trai đồng 5 con loại vừa, lá dâu non 30g, gạo nếp 50g, gạo tẻ 50g, dầu thực vật, bột gia vị vừa đủ.
Pha nước muối loãng ngâm trai, sau một giờ vớt ra rửa sạch, cho vào nồi luộc, nhặt lấy ruột trai và lọc lấy nước trong. Ruột trai bỏ hết phần đất, thái nhỏ ướp gia vị, dùng dầu thực vật xào cho thơm. Lá dâu non rửa sạch thái nhỏ, gạo tẻ, gạo nếp xay thành bột mịn, cho thêm nước vào nước luộc trai, cho bột gạo vào quấy đều, đun nhỏ lửa, khi cháo chín cho trai, lá dâu, nêm vừa gia vị, cháo sôi lại là được. Ngày ăn 2 lần lúc đói, cần ăn liền trong 4 - 5 ngày
Cháo sò, hến: Sò biển 100g, hến 100g, gạo 50g, rễ cây hẹ 3g, gia vị vừa đủ.
Sò, hến đem rửa sạch, hấp cách thủy rồi bỏ vỏ, ruột thái nhỏ, ướp bột gia vị. Rễ cây hẹ rửa sạch giã nhỏ lọc lấy 200ml nước. Gạo xay nhỏ mịn cho vào nước rễ cây hẹ quấy đều, đun nhỏ lửa. Khi cháo chín cho sò biển và hến vào đảo đều, cháo sôi lại là được. Ăn ngày một lần lúc đói. Cần ăn liền 3 - 5 ngày.
Canh lá dâu: Lá dâu non 50g, thịt lợn nạc 100g, bột ngọt, gia vị vừa đủ.
Lá dâu non rửa sạch thái nhỏ, thịt lợn nạc băm nhỏ ướp bột gia vị, xào chín, thêm 200ml nước đun sôi, cho lá dâu đảo đều, canh sôi lại cho bột ngọt là được. Ăn ngày một lần với cơm, ăn liền 5 ngày.
Nước đậu đen: Đậu đen 50g, long nhãn 15g, táo tàu 5 quả.
Đậu đen đem rang chín, cho vào nồi cùng long nhãn, táo tàu, thêm 300ml nước đun nhỏ lửa, khi còn 200ml chắt lấy nước, chia làm 4 lần uống trong ngày. Cần uống liền 3 ngày.
Nước mộc nhĩ: Mộc nhĩ 20g, táo tàu 5 quả.
Mộc nhĩ rửa sạch cùng táo tàu cho vào nồi thêm 300ml nước đun sôi kỹ chắt lấy 150ml, chia 3 lần uống trong ngày. Cần uống liền 5 ngày.
(BS Nguyễn Văn Trường, Sức khỏe và Đời sống)